Năm 2007, Công ty TTTH ĐS Hà Nội tiếp tục thực hiện mục tiêu của ngành Đường sắt là “Đổi mới, an toàn và phát triển bền vững” cũng như bám sát phương hướng phát triển khoa học công nghệ (KHCN) giai đoạn 2006-2010 của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (ĐSVN), tình hình phát triển KHCN của Công ty TTTH ĐS Hà Nội đã có bước chuyển biến mạnh mẽ và đã đạt được những kết quả như sau:
1. Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch KHCN
Trong sự phát triển mạnh mẽ về đổi mới KHCN của Ngành Đường sắt, Hội đồng khoa học kỹ thuật Công ty (KHKT) đã nhận thấy sự cấp thiết phải đổi mới công nghệ để đáp ứng và gắn liền với mục tiêu tổng thể của ngành: “ Phát triển hệ thống giao thông vận tải ĐS hợp lí, thống nhất, đồng bộ và hiện đại trên phạm vi cả nước, hỡnh thành một số ga trung tõm kết nối kết cấu hạ tầng và dịch vụ vận tải với cỏc phương thức vận tải khác. Mở rộng thị trường, thúc đẩy phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch, phục vụ vận tải cụng cộng.”
Ngay từ cuối năm 2006 và đầu năm 2007, Hội đồng KHKT Công ty đã triển khai đến từng CBCNV kế hoạch đăng ký các đề tài NCKH năm 2007, đồng thời xây dựng kế hoạch cụ thể để phát triển các sáng kiến hợp lý hoá sản xuất. Trong kế hoạch nêu rõ trọng tâm chính của công tác KHCN của Công ty năm 2007 như sau:
- Hoàn thiện cơ chế quản lý, hệ thống tiêu chuẩn, định mức, qui trình, qui tắc trong tất cả các khâu đạt tiêu chuẩn cấp chứng chỉ quản lý ISO 9000: 2000.
- Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thành các đề tài NCKH cấp Tổng công ty đã được giao nhiệm vụ và phát triển ứng dụng các đề tài cấp Công ty. Khuyến khích và khen thưởng đặc biệt các đề tài có tính khả thi và các đề tài phục vụ cho việc tin học hoá công tác quản lý.
- Hội đồng KHCN Công ty luôn tiếp nhận và xem xét mọi sáng kiến hợp lý hoá sản xuất (HLHSX), sáng kiến nào có giá trị làm lợi về kinh tế và quản lý sẽ được khen thưởng trực tiếp và áp dụng rộng rãi.
- Tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngày thứ 7 để phổ biến kiến thức về KHCN cho cán bộ công nhân viên Công ty.
Năm 2007, Công ty TTTH ĐS Hà nội tiếp tục quản lý hệ thống thông tin tín hiệu đường sắt hiện đại thuộc dự án”Hiện đại hoá thiết bị thông tin tín hiệu đường sắt Hà Nội – Vinh giai đoạn I” đồng thời thực hiện công tác chuẩn bị cho dự án này giai đoạn II. Chính vì vậy, việc quản lý kỹ thuật thiết bị mới đang đứng trước cơ hội và thời cơ mới đối với toàn bộ đội ngũ kỹ thuật của Công ty. Xuất phát từ thực tế công việc, CBCNV Công ty đã không ngừng nâng cao chuyên môn nghiệp vụ và công tác thực hiện các nhiệm vụ theo kế hoạch KHCN Công ty đã có những kết quả vượt bậc:
+ Về sáng kiến hợp lý hoá sản xuất
Tại mọi vị trí công tác, từ người quản lý kỹ thuật tới công nhân trực tiếp đều đã có những sáng kiến vận dụng như các sáng kiến cải tiến công tác quản lý văn thư lưu trữ, quản lý thiết bị, quản lý trở ngại … Toàn Công ty trong năm 2007 đã có 12 sáng kiến hợp lý hoá sản xuất phục vụ trực tiếp cho công tác quản lý kỹ thuật và công tác giải quyết trở ngại hàng ngày tiêu biểu như:
- Cải tạo ngăn nguồn tổng đài tập trung trong ga JHT 10, đây là giải pháp cải tạo được các ngăn nguồn cho hệ thống tổng đài đặt tại ga đảm bảo thông tin liên lạc cho toàn khu ga, đảm bảo an toàn chạy tàu.
- Cải tiến mạch đèn báo hướng thu phát máy tải ba, đây là sáng kiến giúp cho công tác quản lý kỹ thuật cũng như giải quyết trở ngại kịp thời đạt hiệu quả cao.
- Dùng mô tơ đã qua sử dụng có sẵn trên thị trường thay thế các mô tơ chuông 1 chiều 24V-10mA tại đường ngang. Giải pháp này đã giúp cho công tác đảm bảo an toàn cho hệ thống cảnh báo tại đường ngang, sáng kiến đã đưa ra một hướng phát triển mới và hiệu quả cho công tác quản lý vật tư.
Ngoài ra còn rất nhiều các sáng kiến HLHSX khác có giá trị kinh tế lớn của cán bộ CNV Công ty TTTH ĐS Hà nội, đó là một kho báu trí tuệ vô cùng giá trị cần được khai thác và vận dung.
+ Về các đề tài nghiên cứu khoa học
Trong năm 2007, đã có rất nhiều các đề tài NCKH được triển khai với qui mô rộng rãi, đặc biệt là sự trưởng thành của nhiều kỹ sư trẻ. Trong số các đề tài đăng ký cấp công ty có 80 % là đề tài của các chi đoàn, đoàn viên thanh niên và trong số các đề tài đó, hội đồng KHCN Công ty đã phê duyệt 05 đề tài nghiên cứu ứng dụng KHKT cấp Công ty với kinh phí là 64,5 triệu đồng. Đó là các đề tài có tính thực tiễn cao, có khả năng áp dụng rộng rãi với kinh phí nhỏ nhất như:
- Xây dựng phần mềm quản lý cấu hình mạng máy tính cho Công ty TTTH ĐS Hà Nội.
- Nghiên cứu ứng dụng công nghệ Olap xây dựng phần mềm quản lý, điều hành kế hoạch SCTX trên nền công nghệ Web cho công ty TTTH ĐS Hà Nội.
- Viết phần mềm tìm kiếm, quản lý phục vụ công tác trợ giúp điện thoại và quản lý, sửa chữa mạng bao điện thoại đường sắt.
- Xây dựng cổng điện tử quản lý trở ngại thiết bị TTTH Điện
- Xây dựng từ điển chuyên ngành Anh – Việt
Đối với 3 đề tài đã trình và được Tổng công ty phê duyệt, các chủ nhiệm đề tài đã hoàn thiện đề tài và đã thực hiện bảo vệ trước Hội đồng KHCN Tổng công ty vào ngày 26/11/2007. Cụ thể gồm các đề tài sau:
v Đề tài 01: “ Xây dựng quy trình quản lý, vận hành và bảo trì thiết bị điều độ số CEMU-DCO-SEI và ghi âm số MIRRA2”
Chủ nhiệm đề tài: Kỹ sư Nguyễn Thị Lệ Hà.
Đánh giá đề tài: Khá
v Đề tài 02: “ Quy trình quản lý, vận hành và bảo trì thiết bị ga điện khí tập trung: Liên khoá điện tử SSI, ghi thuỷ lực C1H và máy đếm trục toa xe AZF-RSR180”.
Chủ nhiệm đề tài: Kỹ sư Nguyễn Đức Hà.
Đánh giá đề tài: Khá
v Đề tài 03: “ Xây dựng quy trình quản lý, vận hành và bảo trì tổng đài điện tử số MATRA”
Chủ nhiệm đề tài: Kỹ sư Hà Huy Trúc.
Đánh giá đề tài: Đạt
2. Công tác ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001: 2000
Cùng với sự đổi mới mạnh mẽ trong nền kinh tế của đất nước và sự chuyển đổi cơ chế của ĐSVN, qua tìm hiểu và được lãnh đạo ngành cũng như nhiều đơn vị bạn ủng hộ, Công ty đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và đối với hệ thống doanh nghiệp SX- dịch vụ đó là tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Việc xây dựng và áp dụng hệ thống QLCL theo tiêu chuẩn ISO đã được thực tế khẳng định là một biện pháp khoa học bảo đảm chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp
Tuy nhận thức được như vậy, nhưng việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO lại là một công việc đầy khó khăn. Đầu tiên là việc khắc phục những trở lực trong chính cách nghĩ cách làm cũ của đa số CBCNV. Bởi lẽ hệ thống QLCL theo ISO là sự thể hiện của khoa học tư duy, khoa học tổ chức với cách tiếp cận theo quá trình và quan hệ công tác mang tính hệ thống cao. Song, với quyết tâm cao của Ban Lãnh đạo , với sự nhiệt tình của các đồng chí được giao nhiệm vụ tiếp cận kiến thức, xây dựng, phổ biến và đi đầu trong vận hành hệ thống mà dần dần hệ thống quản lý chất lượng theo ISO, phiên bản 9001: 2000 của Công ty đã được xây dựng và đưa vào áp dụng với qui trình như sau:
Tháng 9 năm 2002, Công ty kí kết hợp đồng tư vấn xây dựng hệ thống với Công ty Tư vấn quản lý quốc tế IMC.
Tháng 10/2002, Công ty đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo xây dựng hệ thống QLCL gồm các đồng chí trong Ban Giám đốc do đồng chí Giám đốc làm Trưởng Ban và một đồng chí Phó Giám đốc làm đại diện lãnh đạo về hệ thống QLCL, thành lập tổ soạn thảo gồm các đồng chí Trưởng phó phòng và những cán bộ có nhiều kinh nghiệm về kỹ thuật và tổ chức SX của đơn vị.
Ngay sau khi thành lập , dưới sự tư vấn, hướng dẫn của IMC và theo kế hoạch chi tiết được IMC thống nhất , Ban chỉ đạo đã từng bước hoàn thành các công việc: tập huấn cho CBCNV nhận thức về hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và phiên bản 9001:2000, xây dựng hệ thống văn bản của hệ thống QLCL dựa trên các nguyên tắc và yêu cầu của Tiêu chuẩn và đối chiếu vận dụng với hoạt động của Công ty.
Qua nhiều lần hiệu chỉnh đến tháng 12/ 2004, lần đầu tiên Công ty đã hoàn thành được toàn bộ hệ thống QLCL của mình bao gồm: 1 sổ tay chất lượng, 19 quy trình, 20 quy định và 108 biểu mẫu và tháng 3/ 2005 phòng QLCL của Công ty được thành lập với nhiều nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ tổ chức phổ biến tuyên truyền tinh thần và nội dung của hệ thống theo ISO đến tận từng tổ trưởng tổ SX, phân phối tài liệu đến các đơn vị trực thuộc để chuẩn bị cho việc đưa hệ thống vào vận hành thử.
Song song với việc chuẩn bị vận hành thử, Công ty đã cùng với Công ty Tư vấn IMC tổ chức mở các lớp đào tạo chuyên gia đánh giá nội bộ dành cho các đồng chí cán bộ từ cấp chuyên viên các Trung tâm trở lên, cho đến tháng 5/ 2005 có 50 chuyên viên đã được Tổ chức IMC công nhận là chuyên gia đánh giá nội bộ.
Từ tháng 4/2005 đến tháng 6/2005, Công ty đã thực hiện vận hành thử hệ thống và với kết quả đánh giá nội bộ tháng 6/2005, Giám đốc Công ty đã quyết định đưa hệ thống quản lý chất lượng vào vận hành chính thức trong toàn Công ty từ ngày 01/7/2005. Qúa trình vận hành chính thức, Công ty đã tổ chức được 4 lần đánh giá nội bộ: tháng 12/ 2005, tháng 3/2006, tháng 12/2006 và tháng 3/2007, 2 lần họp xem xét của lãnh đạo về hệ thống QLCL. Thông qua đánh giá nội bộ và họp xem xét của lãnh đạo về hệ thống QLCL, nhiều điểm không phù hợp đã được phát hiện và khắc phục, phần lớn các quy trình, quy định và Sổ tay CL đã được nghiên cứu sửa đổi , trong đó có quy trình được ban hành đến lần thứ 4
Với kết quả đã đạt được và với quỹ thời gian vận hành chính thức gần 2 năm ,đến tháng 2/ 2007, Công ty đã ký hợp đồng đánh giá chứng nhận với Tổ chức Tư vấn là Công ty TNHH Tuv Nord Việt nam thuộc Tổ chức TUV CERT- CHLB Đức , một đơn vị mà qua tìm hiểu thấy rằng đây là một tổ chức có uy tín thế giới, có nhiều kinh nghiệm tư vấn đánh giá và giám sát tại Việt Nam nói chung và trong ngành Đường sắt nói riêng. Quá trình đánh giá chứng nhận đã được thực hiện theo đúng quy trình và bảo đảm tính nguyên tắc. Ngày 10/ 8/2007, Công ty đã nộp hồ sơ khắc phục sau đánh giá chứng nhận và đã được Công ty Tuv Nord xác nhận làm thủ tục cấp chứng chỉ hệ thống QLCL phù hợp Tiêu chuẩn ISO 9001:2000 vào ngày 21/8 / 2007. Ngày 12/10/2007, Công ty đã chính thức tổ chức đón nhận chứng chỉ QLCL theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000
3. Đánh giá hiệu quả công tác KHCN năm 2007
3.1 Về công tác quản lý & quản lý kỹ thuật
Trong năm 2007, các sáng kiến và đề tài NCKH đã đặt nền tảng cho việc thay đổi nhận thức về công tác quản lý. Các đề tài NCKH đăng ký đều hướng đến mục tiêu tin học hoá toàn bộ công tác quản lý đó là sự tiết kiệm không thể tính được bằng lợi ích kinh tế. Các đề tài như: Xây dựng hệ thống quản lý thông tin nội bộ S-office, xây dựng cổng thông tin trở ngại TTTH Điện đưa vào sử dụng đã đạt được hiệu quả không thể phủ nhận. Hiệu quả của các đề tài là tiết kiệm được thời gian, nhân lực và đáp ứng được nhu cầu quản lý, tiếp nhận thông tin tăng hiệu quả của công tác quản lý lên tới hàng chục lần. Mọi tin tức và thông tin về thiết bị cũng như các chỉ thị, công việc của lãnh đạo đều được tiếp nhận và xử lý online. Có thể nói: Các đề tài NCKH năm 2007 đã giảm được tối đa sức lao động phổ thông cho người lao động, mang lại hiệu quả cao cho công tác quản lý, điều hành và giải quyết trở ngại. Đặc biệt là các đề tài về qui trình quản lý đã được bảo vệ cấp Tổng công ty ĐSVN đã đem lại một cách nhìn tổng thể trong việc quản lý hệ thống thiết bị công nghệ hiện đại SDH.
Các trung tâm TTTH đã có rất nhiều các sáng kiến hợp lý hoá SX và đã được vận hành trực tiếp vào sản xuất. Có rất nhiều sáng kiến có khả năng ứng dụng rộng rãi và cũng có những sáng kiến đem lại những giải pháp kỹ thuật tốt đảm bảo an toàn chạy tàu.
Ngoài ra đối với các đơn vị quản lý, cũng đã có các đề tài về quản lý nhân sự, quản lý văn thư…các đề tài đều được Hội đồng kHCN Công ty đánh giá cao và đang được triển khai rộng rãi.
3.2 Về lợi ích kinh tế
Các sáng kiến NCƯD KHCN & HLHSX về vật chất không thể tính được lợi ích kinh tế vì nó đảm bảo đươc hiệu quả lao động và tiết kiệm được thời gian làm việc của người công nhân giúp họ giảm bớt lao động phổ thông, nâng cao điều kiện lao động đảm bảo sức khoẻ, tinh thần và tính mạng của người công nhân và là nhân tố quyết định đến an toàn chạy tàu phục vụ cho nhân dân cả nước.
Thêm vào đó với sự kiện Công ty TTTH ĐS Hà nội được công nhận chứng chỉ ISO 9001: 2000 đã đặt Công ty lên một tầm cao mới, nâng cao năng lực cạnh tranh thu hút vốn đầu tư tăng năng suất lao động đem lại hiệu quả cho công tác sản xuất kinh doanh.
Năm 2007, Công ty TTTH ĐS Hà Nội tiếp tục thực hiện mục tiêu của ngành Đường sắt là “Đổi mới, an toàn và phát triển bền vững” cũng như bám sát phương hướng phát triển khoa học công nghệ (KHCN) giai đoạn 2005-2010 của Tổng công ty Đường sắt Việt Nam (ĐSVN), tình hình phát triển KHCN của Công ty TTTH ĐS Hà Nội đã có bước chuyển biến mạnh mẽ và đã đạt được những kết quả như sau:
1. Việc xây dựng và thực hiện kế hoạch KHCN
Trong sự phát triển mạnh mẽ về đổi mới KHCN của Ngành Đường sắt, Hội đồng khoa học công nghệ (KHCN) Công ty đã nhận thấy sự cấp thiết phải đổi mới công nghệ để đáp ứng và gắn liền với mục tiêu tổng thể của ngành: “ Phát triển hệ thống giao thông vận tải ĐS hợp lí, thống nhất, đồng bộ và hiện đại trên phạm vi cả nước, hình thành một số ga trung tâm kết nối kết cấu hạ tầng và dịch vụ vận tải với các phương thức vận tải khác. Mở rộng thị trường, thúc đẩy phát triển thương mại, dịch vụ, du lịch, phục vụ vận tải công cộng.”
Ngay từ đầu năm 2007, Hội đồng KHCN Công ty đã triển khai đến từng CBCNV kế hoạch đăng ký các đề tài NCKH năm 2007 - 2010, đồng thời xây dựng kế hoạch cụ thể để phát triển các sáng kiến hợp lý hoá sản xuất. Trong kế hoạch nêu rõ trọng tâm chính của công tác KHCN của Công ty giai đoạn 2007 -2010 như sau:
- Hoàn thiện cơ chế, quy chế quản lý, điều hành nội bộ, hệ thống tiêu chuẩn, định mức, qui trình, qui tắc trong tất cả các khâu sản xuất kinh doanh đạt tiêu chuẩn cấp chứng chỉ quản lý ISO 9000: 2000.
- Tiếp tục nghiên cứu và hoàn thành các đề tài NCKH cấp Tổng công ty đã được giao nhiệm vụ và phát triển ứng dụng các đề tài cấp Công ty. Khuyến khích và khen thưởng đặc biệt các đề tài có tính khả thi và các đề tài phục vụ cho việc tin học hoá công tác quản lý.
- Hội đồng KHCN Công ty luôn tiếp nhận và xem xét mọi sáng kiến hợp lý hoá sản xuất (HLHSX), sáng kiến nào có giá trị làm lợi về kinh tế và quản lý sẽ được khen thưởng trực tiếp và áp dụng rộng rãi.
- Thực hiện chiến lược về đào tạo nguồn nhân lực bằng nhiều biện pháp khác nhau như: tổ chức các lớp học nghiệp vụ ngày thứ 7, giới thiệu phổ cập công nghệ trên mạng nội bộ, cử đi đào tạo dài hạn, ngắn hạn.... nhằm nâng cao một bước về chuyên môn nghiệp vụ, kỹ năng, tay nghề của CBCNV
- Đẩy mạnh công tác sáng kiến hợp lý hoá sản xuất trong người lao động khối trực tiếp sản xuất, mà tổ chức công đoàn đóng một vai trò quan trọng.
Tại mọi vị trí công tác, từ người quản lý kỹ thuật tới công nhân trực tiếp đều đã có những sáng kiến vận dụng như các sáng kiến cải tiến công tác quản lý văn thư lưu trữ, quản lý thiết bị, quản lý trở ngại … Toàn Công ty giai đoạn 2007-2009 đã thực hiện được nhiều đề tài nghiên cứu ứng dụng cấp tổng công ty, cấp công ty và hàng trăm sáng kiến cải tiến hợp lý hóa sản xuất.
Tiêu biểu là các đề tài nghiên cứu ứng dụng ấp tổng công ty và công ty đã được triển khai nghiên cứu thành công như:
1. Nghiên cứu công nghệ VoiP và VPN xây dựng tuyến trung kế liên đài tuyến thông tin Hà Nội - Việt Trì - Yên Bái - Phố Lu - Lao Cai
2. Xây dựng cổng quản lý, điều hành trở ngại, sự cố thiết bị TTTH.
3. Xây dựng phần mềm mạng nội bộ từ cơ quan công ty đến các đơn vị trực thuộc.
4. Ba đề tài biên soạn quy trình quản lý, bảo trì và vận hành thiết bị mới như tổng đài số Matra; Điều độ số DCO, SEI; hệ thống liên
khóa điện tử SSI và nhiều quy trình quản lý vận hành khác.
5. Xây dựng các phần mềm quản lý: văn bản HastecDoc, quản lý thuê bao HasitecPC, quản lý kế hoạch HasitecPL, từ điển chuyên ngành tín hiệu....
Các đề tài NCUWD, sáng kiến, cải tiến hợp lý hóa sản xuất đều thiết thực, mang lại hiệu quả kinh tế cao, góp phần giải quyết các khó khăn trong sản xuất và nâng cao chất lượng quản lý cũng như đảm bảo an toàn hệ thống thiết bị TTTT.
2. Công tác ứng dụng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001: 2000
Cùng với sự đổi mới mạnh mẽ trong nền kinh tế của đất nước và sự chuyển đổi cơ chế của ĐSVN, qua tìm hiểu và được lãnh đạo ngành cũng như nhiều đơn vị bạn ủng hộ, Công ty đã nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của việc xây dựng và áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và đối với hệ thống doanh nghiệp SX- dịch vụ đó là tiêu chuẩn ISO 9001:2000. Việc xây dựng và áp dụng hệ thống QLCL theo tiêu chuẩn ISO đã được thực tế khẳng định là một biện pháp khoa học bảo đảm chất lượng sản phẩm mà doanh nghiệp cung cấp cho khách hàng.
Tuy nhận thức được như vậy, nhưng việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế ISO lại là một công việc đầy khó khăn. Đầu tiên là việc khắc phục những trở lực trong chính cách nghĩ cách làm cũ của đa số CBCNV. Bởi lẽ hệ thống QLCL theo ISO là sự thể hiện của khoa học tư duy, khoa học tổ chức với cách tiếp cận theo quá trình và quan hệ công tác mang tính hệ thống cao. Song, với quyết tâm cao của Ban Lãnh đạo, với sự nhiệt tình của các đồng chí được giao nhiệm vụ tiếp cận kiến thức, xây dựng, phổ biến và đi đầu trong vận hành hệ thống mà dần dần hệ thống quản lý chất lượng theo ISO, phiên bản 9001: 2000 của Công ty đã được xây dựng và đưa vào áp dụng với qui trình như sau:
- Tháng 10/2002, Công ty đã quyết định thành lập Ban chỉ đạo xây dựng hệ thống QLCL gồm các đồng chí trong Ban Giám đốc do đồng chí Giám đốc làm Trưởng Ban và một đồng chí Phó Giám đốc làm đại diện lãnh đạo về hệ thống QLCL, thành lập tổ soạn thảo gồm các đồng chí Trưởng phó phòng và những cán bộ có nhiều kinh nghiệm về kỹ thuật và tổ chức SX của đơn vị.
- Ngay sau khi thành lập, dưới sự hướng dẫn của đơn vị tư vấn, ban chỉ đạo đã từng bước hoàn thành các công việc: tập huấn cho CBCNV nhận thức về hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO và phiên bản 9001:2000, xây dựng hệ thống văn bản của hệ thống QLCL dựa trên các nguyên tắc và yêu cầu của Tiêu chuẩn và đối chiếu vận dụng với hoạt động của Công ty.
- Qua nhiều lần hiệu chỉnh đến tháng 12/ 2004, lần đầu tiên Công ty đã hoàn thành được toàn bộ hệ thống QLCL của mình bao gồm: 1 sổ tay chất lượng, 19 quy trình, 20 quy định và 108 biểu mẫu và tháng 3/ 2005 phòng QLCL của Công ty được thành lập với nhiều nhiệm vụ, trong đó có nhiệm vụ tổ chức phổ biến tuyên truyền tinh thần và nội dung của hệ thống theo ISO đến tận từng tổ trưởng tổ SX, phân phối tài liệu đến các đơn vị trực thuộc để chuẩn bị cho việc đưa hệ thống vào vận hành thử.
- Từ tháng 4/2005 đến tháng 6/2005, Công ty đã thực hiện vận hành thử hệ thống và với kết quả đánh giá nội bộ tháng 6/2005, Giám đốc Công ty đã quyết định đưa hệ thống quản lý chất lượng vào vận hành chính thức trong toàn Công ty từ ngày 01/7/2005. Qúa trình vận hành chính thức, Công ty đã tổ chức được 4 lần đánh giá nội bộ: tháng 12/ 2005, tháng 3/2006, tháng 12/2006 và tháng 3/2007, 2 lần họp xem xét của lãnh đạo về hệ thống QLCL. Thông qua đánh giá nội bộ và họp xem xét của lãnh đạo về hệ thống QLCL, nhiều điểm không phù hợp đã được phát hiện và khắc phục, phần lớn các quy trình, quy định và Sổ tay CL đã được nghiên cứu sửa đổi , trong đó có quy trình được ban hành đến lần thứ 4
Với kết quả đã đạt được và với quỹ thời gian vận hành chính thức gần 2 năm, đến tháng 2/ 2007, Công ty đã ký hợp đồng đánh giá chứng nhận với Tổ chức Tư vấn là Công ty TNHH Tuv Nord Việt nam thuộc Tổ chức TUV CERT- CHLB Đức, đây là một tổ chức có uy tín thế giới, có nhiều kinh nghiệm tư vấn đánh giá và giám sát tại Việt Nam nói chung và trong ngành Đường sắt nói riêng. Quá trình đánh giá chứng nhận đã được thực hiện theo đúng quy trình và bảo đảm tính nguyên tắc. Ngày 10/ 8/2007, Công ty đã nộp hồ sơ khắc phục sau đánh giá chứng nhận và đã được Công ty Tuv Nord xác nhận làm thủ tục cấp chứng chỉ hệ thống QLCL phù hợp Tiêu chuẩn ISO 9001:2000 vào ngày 21/8/2007. Ngày 12/10/2007, Công ty đã chính thức tổ chức đón nhận chứng chỉ QLCL theo tiêu chuẩn ISO 9001: 2000
3. Đánh giá hiệu quả công tác NCƯD KHCN và quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn ISO iai đoạn 2005-2010
- Công tác NCƯD và sáng kiến, cải tiến hợp lý hóa là nền tảng quan trọng giúp công ty giải quyết khó khăn trong việc đảm bảo sự vận hành liên tục, đảm bảo an toàn thiết bị đáp ứng cá yêu cầu của vận tải ngày một tăng.
- Việc định hướng nghiên cứu và triển khai kết quả nghiên cứu của các đề tài vào SXKD, thực sự trở thành một lực lượng sản xuất đáng kể trong việc nâng cao sản lượng, nâng cao năng xuất lao động nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và đảm bảo an toàn trong quản lý.
- Nâng cao một bước tính bài bản, chuyên nghiệp trong quản lý của bộ máy; Nâng cao uy tín và vị thế công ty đối với các sản phâm dịch vụ cung cấp cho khách hàng.
Chú ý: Việc đăng lại bài viết trên ở website hoặc các phương tiện truyền thông khác mà không ghi rõ nguồn http://hasitec.com.vn là vi phạm bản quyền